Từ nguyên Ngoại ô

Cửa ô Quan Chưởng của thành Hà Nội thời Nguyễn, ranh giới giữa nội thành và ngoại ô

Tiếng Việt dùng danh từ "ngoại ô" tức là phía ngoài cửa ô, phía ngoài cửa thành cổ truyền. Theo lối suy nghĩ xưa thì đô thị chủ yếu có thành trì nơi đặt dinh sở công quyền. Chung quanh thành thì có tường lũy, phía ngoài còn có hào sâu phòng thủ. Vì là nơi có quân doanh nên việc ra vào bị kiểm soát ở cổng thành. Từ đấy cổng thành trở thành ranh giới không gian giữa đô thành và nông thôn; và ngọai ô trở thành khu vực áp với thành phố nhưng chưa hẳn là nông thôn.[2]

Theo Việt ngữ tinh nghĩa từ điển (1950) thì "ô" ngày xưa có nghĩa là "ô hợp" "hỗn độn" vì trong thành thì ngăn nắp, quy củ, còn ngoài thành thì đủ hạng dân tụ tập, trú ngụ.[3]